Đánh giá Thuyết minh về cây lúa là conpect trong bài viết bây giờ của Emerald City Convergence. Theo dõi nội dung để biết chi tiết nhé.
Cây lúa là một trong những hình ảnh quen thuộc gắn liền với làng quê Việt Nam song không phải bạn học sinh nào có thể hiểu rõ về loại cây này về cách chúng phát triển, đặc điểm nguồn gốc và giá trị mà mang lại. Cùng theo dõi bài viết thuyết minh về cây lúa sau đây để nắm rõ cách làm bài.
Dàn ý tổng quát bài thuyết minh về cây lúa
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về cây lúa
2. Thân bài
2.1. Nguồn gốc của lúa từ đâu
- Nguồn gốc lúa theo lịch sử
- Nguồn gốc lúa theo dân gian
2.2. Lúa Việt Nam bao gồm những chủng loại nào
- Liệt kê các chủng loại lúa tại Việt Nam
- Nêu đặc điểm nhận diện của từng loại lúa
2.3. Cây lúa mang những đặc điểm gì
- Nêu đặc điểm về hình dạng, kích thước lúa
- Nêu đặc điểm về cấu tạo lúa
2.4. Quá trình phát triển của lúa như thế nào
- Nêu quá trình từ lúc gieo mạ đến khi lúa trổ bông, thu hoạch
5. Những giá trị mà lúa mang lại với người nông dân và với xã hội
- Nêu tác dụng của lúa với con người, với xã hội
- Nêu vai trò, ý nghĩa của cây lúa với người nông dân, với xã hội
3. Kết bài
- Tương lai của cây lúa
Dàn ý chi tiết bài thuyết minh về cây lúa
1. Mở bài
- Gắn liền với hình ảnh làng quê Việt Nam là hình ảnh đồng lúa bao la, trải dài bát ngát.
- Cây lúa mang lại nhiều giá trí tốt đẹp.
2. Thân bài:
2.1. Nguồn gốc
- Xuất phát từ cây lúa dại và được người dân đưa vào trồng trọt khoảng hơn vạn năm trước.
- Trong dân gian lưu truyền cây lúa được phát hiện bởi một đôi vợ chồng do nạn đói phải di cư vào rừng và vô tình phát hiện ra hạt giống lúa nhờ săn bắt chim rừng.
2.2. Chủng loại
- Lúa tại Việt Nam có hai loại chính: lúa nếp và lúa tẻ.
- Lúa nếp: lúa có hạt thóc ngắn thuôn dài hơn lúa tẻ, thường dùng để nấu xôi, rượu, bánh chưng,…
- Lúa tẻ: lúa có hạt thóc khá nhỏ, dùng làm lương thực chính trong các bữa ăn
2.3. Đặc điểm
- Lúa là cây thân cỏ, có thể đạt tới chiều cao tối đa khoảng 2m
- Rễ chùm, dài tối đa lên tới 2 hoặc 3 km
- Màu lá thay đổi theo từng giai đoạn phát triển, lá dẹp, dài
- Hoa lúa: màu trắng, có nhụy và nhị hoa nên có thể tự thụ phấn thành các hạt thóc nhỏ
2.4. Quá trình phát triển
- Người nông dân gieo mạ vào khoảng đầu xuân, gần tết.
- Trước khi trồng tại ruộng thì mạ được gieo ở một khu đất riêng, mạ được ủ tại đó khoảng 3, 4 tuần để phát triển thành cây con.
- Người nông dân nhổ mạ và bắt đầu cấy lúa tại ruộng.
- Từ mạ thành cây con được gọi là thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng
- Thời kỳ tiếp theo là thời kỳ sinh trưởng sinh thực: mạ ra hoa trắng, hoa lúa trổ bông tạo thành các hạt thóc được bao bọc một lớp vỏ xanh bên ngoài.
- Thời kỳ lúa chính là khi những hạt lúa xanh dần chuyển màu vàng nhạt, cây trĩu xuống, lá đầy ngọn ngả dần về màu vàng.
2.5. Giá trị
Giá trị sử dụng
- Lúa là lương thực của người dân, là thành phần của nhiều thực phẩm, món ăn hàng ngày như bún, phở, bột mỳ,bột nếp,….
- Là nguồn lợi nhuận của người trồng thương mại hóa
Giá trị tinh thần
- Gắn bó hơn vạn năm với người dân Việt Nam
- Việt Nam xếp thứ hai về xuất khẩu gạo trên thế giới
3. Kết bài
Tương lai của cây lúa
- Lúa chiếm giữ một vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân
- Dù qua nhiều thập kỷ nhưng vị trí cây lúa không hề thay đổi
Bài viết số 1: Đoạn văn mở bài thuyết minh về cây lúa Việt Nam
Việt Nam là nước nông nghiệp có nền văn minh lúa nước từ rất lâu đời. Cây lúa là cây lương thực hàng đầu và là một trong những loại cây tiêu biểu của xứ sở này. Nó có vai trò và vị trí đặc biệt trong nền kinh tế, đời sống của người dân Việt Nam. Đi khắp đất nước Việt Nam ta, từ Bắc chí Nam, từ miền ngược đến miền xuôi, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh những đồng lúa thẳng cánh cò bay quen thuộc:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đầu trời đẹp hơn.
Để có được cây lúa, những người nông dân đã vất vả lao động từng ngày: từ gieo mạ, cấy rồi chăm sóc, vun xới cho cây. Lúa được trồng ở những vùng đồng bằng châu thổ, nơi có phù sa bồi đắp. Cũng như đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là một vựa lúa lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, không chỉ có ở đồng bằng, cây lúa còn được trồng trên vùng cao với những ruộng bậc thang xanh mướt. Lúa thích nghi đặc biệt với khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam theo hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Phần lớn những người nông dân còn phụ thuộc vào cây lúa. Đây là một hình thức sản xuất nông nghiệp phổ biến và dễ thấy ở Việt Nam. Cây lúa đã đưa Việt Nam từ nước đói kém sau chiến tranh thành một quốc gia xuất khẩu lúa gạo đứng thứ hai trên thế giới. Không thể thiếu cây lúa trong đời sống người Việt Nam.
Bài viết số 2: Đoạn văn thuyết minh về lợi ích cây lúa
Cây lúa cung cấp lương thực cho con người. Lúa cho thóc, gạo dùng làm cơn trong các bữa ăn hàng ngày. Từ gạo người ta cũng có thể làm ra được các loại bánh như bánh chưng, bánh giày, bánh nếp,… Từ gạo người ta cũng lành ra bún, phở… Một món ăn rất ngon, một thức quà đặc biệt làm từ lúa, đó là cốm. Những hạt cốm xanh non, thơm mùi lúa là thức quà thanh nhi. Cây lúa khi đã lấy hết những hạt thóc, còn lại thân và lá, người ta đem phơi khô làm thành rơm, rạ. Rơm làm thức ăn cho trâu, bò; làm chất đốt, để lợp nhà,… Rơm u mục làm phân bón cho ruộng đồng. Từ rơm, người ta cũng có thể trồng nấm rơm hay để làm chổi, đan, Tết lại để làm mũ. Trong thời kỳ đất nước còn chiến tranh, người dân thường rất quý chiếc mũ rơn), vừa che nắng, che mưa, lại có thể dùng để nguy trang, tránh được bom đại. Vỏ trấu có thể dùng làm chất đốt hay để ấp trứng. Cám gạo còn là thức ăn chủ yếu cho gia súc. Cây lúa có rất nhiều công dụng, từ thân đến lá, thóc, gạo đều có thể sử dụng.
Bài viết số 3: Đoạn văn thuyết minh về những giá trị tinh thần mà cây lúa mang lại
Cây lúa không chỉ đem lại cho chúng ta những lợi ích về vật chất mà còn đem lại cho chúng ta những giá trị tinh thần. Từ xa xưa đến nay, cây lúa luôn là biểu tượng cho nền văn minh lúa nước của người Việt Nam. Ngay cả trong quốc huy của nước Việt Nam, ta cũng có thể thấy biểu tượng của những bông lúa bao quanh. Văn hoá ẩm thực của ta liên quan rất nhiều đến lúa gạo. Cây lúa đã cung cấp cho chúng ta bánh chưng, bánh giày để cúng lễ trời đất, tổ tiên vào ngày Tết. Nhiều lễ hội với nhiều món ăn cổ truyền từ cây lúa xuất hiện trên khắp Việt Nam: lễ tế Thần Nông, ngày giỗ Tổ, ngày bánh trôi, bánh chay… Nhân dân ta đã đề cao hình tượng cây lúa trong thơ ca. Từ lâu chúng ta đã biết đến bài hát “Hạt gạo làng ta” được phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Một bài ca dao cổ cũng cho ta thấy rõ vai trò quan trọng của cây lúa:
Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần
Bài văn số 4: Đoạn văn kết bài thuyết minh cây lúa
Cây lúa rất quan trọng trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của người Việt Nam. Mai sau, dù cho công nghiệp có phát triển, kinh tế có giàu lên bao nhiêu nữa thì vẫn không có loại thực phẩm chính nào thay thế được cây lúa. Cây lúa sẽ là người bạn thân thiết gắn bó với đời sống người nông dân Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.
Bài viết số 5: Thuyết minh về cây lúa Việt Nam
Đến với những vùng thôn quê Việt Nam, không thể không kể đến hình ảnh những đồng lúa bạt ngàn, trải rộng mênh mông, những cây lúa rung rung trước gió dưới chiều tà cho con người cảm giác bình yên, tự tại. Có thể nói, cây lúa mang lại nhiều giá trị tốt đẹp cho người nông dân và cho xã hội.
Giống lúa tại Việt Nam ngày nay xuất phát từ một loại lúa dại có từ hàng vạn năm trước có thân và hạt nhỏ trải qua nhiều quá trình tiến hóa, lai tạo giống mà từ một loại lúa dại đơn giản hiện đã có hàng chục giống lúa khác. Theo lời truyền miệng của dân gian, nguồn gốc của lúa được phát hiện bởi một đôi vợ chồng do nạn đói kéo dài nên họ đã lánh vào rừng sinh sống, ngày ngày săn bắt chim thú và tình cờ phát hiện ra một loại hạt có thể gieo trồng và giúp người dân thoát khỏi nạn đói kéo dài. Loại hạt đó chính là hạt lúa.
Tuy lúa tại Việt Nam có rất nhiều giống khác nhau nhưng có thể phân loại theo hai nhóm chính: lúa nếp và lúa tẻ. Lúa nếp có nhiều giống, tiêu biểu như lúa nếp cái hoa vàng với chiều cao trung bình khoảng hơn mét, chịu được khí hậu khắc nghiệp, năng suất ra hạt tầm trung, người dân thường dùng lúa nếp để nấu rượu nếp, xay bột nếp, nấu sôi, là nguyên liệu làm bánh chưng,….. Với nhóm lúa tẻ, nổi tiếng với lúa Nàng Hương, có chiều cao lên tới khoảng 3, 4 m, hạt nhỏ, dẻo, người dân dùng gạo tẻ để nấu cơm ăn theo bữa, nấu cháo, làm bún, phở,….
Dù là lúa nếp hay lúa tẻ đều có chung đặc điểm về cấu tạo trong và ngoài của cây. Lúa là cây thân cỏ, có chiều cao từ 1m – 3 m, là loại cây rễ chùm đạt chiều cao tối đa khoảng 2 – 3 km. Lá lúa dài, dẹp không có màu cố định mà thay đổi theo từng thời kỳ phát triển của cây lúa. Hoa lúa có màu trắng, xuất hiện từ thời kỳ sinh trưởng sinh thực, có khả năng tự thụ phẩn cho cây phát triển thành các hạt thóc nhỏ. Hạt thóc lúc ban đầu xuất hiện có màu xanh, khi chín đổi thành vàng nhạt, nhỏ chỉ dài khoảng 10 – 20 mm.
Mặt khác, từ lúc gieo mạ đến khi phát triển thành lúa chín lại cần một quá trình dài, nhiều giai đoạn. Đầu tiên, người nông dân gieo mạ vào mùa xuân tháng chạp, gần tết, mạ được gieo tại một khu đất riêng biệt với ruộng để ủ tầm 3 – 4 tuần thì người nông dân mới nhổ mạ và đi cấy tại ruộng. Từ mạ sau khi ủ phát triển thành cây con cao khoảng 10 cm, gọi là thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng. Tiếp đến là thời kỳ sinh trưởng sinh thực khi từ cây con, lúa dần phát triển chiều cao đến độ dài nhất định, lúa bắt đầu ra những bông hoa trắng, sau đó những bông hoa trắng dần thu vào kết thành các hạt thóc nhỏ màu xanh, vỏ hạt cứng, khó tách khỏi cây. Cuối cùng là thời kỳ lúa chín, các hạt thóc chuyển dần về màu vỏ vàng tươi hay còn gọi là cám, dễ dàng tuốt hạt bằng tay, phần ngọn lúa dần chuyển màu vàng nhạt. Người nông dân thu hoạch lúa, tuốt các hạt thóc, phần lá còn lại sau khi tuốt tạo thành các đống rơm rạ.
Cây lúa mang lại cho người nông dân và cho xã hội nhiều giá trị đặc sắc, to lớn. Về mặt giá trị sử dụng, lúa được đưa vào sản xuất, xuất khẩu ra thế giới, là một nguồn lợi nhuận của người nông dân, lúa còn là lương thực chính trong các bữa ăn hàng ngày của người dân. Hạt gạo được đưa vào chế biến phở, bún, bột mỳ,….Về giá trị tinh thần, lúa giúp Việt Nam trở thành nước đứng thứ hai thế giời về xuất khẩu gạo, gắn bó với người dân hàng vạn năm qua.
Như vậy, lúa dù trải qua bao thập kỷ hay bao thăng trầm lịch sử vẫn luôn giữ một vị trí và vai trò quan trọng không hề thay đổi. Hiện nay, diện tích trồng lúa dần bị thu hẹp, công nghiệp hóa đã để lại hậu quả lụt lội quanh năm, tuy thời thế thay đổi nhưng giá trị mà lúa mang lại vẫn vẹn nguyên.
Bài văn số 6: Thuyết minh về cây lúa quê em
Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng 50% số dân làm nghề nông. Chính vì thế, cây lúa là một loài cây quan trọng trong đời sống người Việt. Nó phục vụ chủ yếu cho nhu cầu lương thực trong nước, ngoài ra còn để xuất khẩu ra nước ngoài. Sản lượng xuất khẩu lúa gạo Việt Nam đã đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Thái Lan. Vì thế, cây lúa đã góp phần quan trọng trong việc phát triển đất nước.
Đối với mỗi chúng ta, cây lúa đã trở nên quen thuộc. Cây lúa thân nhỏ, có lớp vỏ bên ngoài bao quanh còn bên trong là thân rất bé nhưng khoẻ. Mỗi cây có khoảng năm, sáu lá có màu xanh, nhọn, có một lớp lông hơi ráp. Mỗi cây có một bông lúa với rất nhiều hạt. Mỗi khi lúa lên đòng, mùi sữa trong các hạt lúa ấy toả ra thơm nhè nhẹ. Cây lúa cũng như người Việt Nam, luôn đoàn kết lẫn nhau: Mỗi cây lúa ở trong một khóm lúa, mỗi khóm lúa trong một ruộng lúa, ruộng lúa trong một cánh đồng cùng che chở cho nhau. Nếu như nói: “Cây lúa là loài cây quan trọng nhất trong đời sống Việt Nam” thì cũng không sai. Cây lúa là cây lương thực chủ yếu của Việt Nam. Chính cây lương thực này đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất nhanh, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Ngoài ra, lúa gạo cũng để làm nguyên liệu chế biến ra những món ăn vừa dân dã vừa đậm đà hương vị dân tộc như bánh chưng, cốm, xôi hoặc các loại bánh… Ở nông thôn, người ta còn tận dụng vỏ trấu để đốt hoặc sử dụng trong các lò ấp trứng. Cám thì lại để dùng cho gia súc ăn, rất tiện mà hơn thế cám còn giúp cho gia súc tăng trưởng tốt. Còn rơm rạ lại là chất đốt hàng ngày trong cuộc sống ở nông thôn. Nếu quay trở lại ngày xưa, ta còn thấy cha ông ta lợp nhà bằng rơm. Trong xã hội phát triển như bây giờ, những ngôi nhà lợp rơm hầu như không còn nữa. Thế nhưng, những chiếc chổi làm bằng rơm thì vẫn còn tồn tại vì nó rất tiện sử dụng. Ngoài ra, rơm cũng là thành phần quan trọng trong việc trồng nấm, giúp nấm phát triển nhanh. Nói chung, xét trên phương diện vật chất, cây lúa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của người Việt Nam.
Cây lúa cũng là một loài cây có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Cây lúa tượng trưng cho nền văn minh lúa nước không chỉ của Việt Nam mà còn của cả Đông Nam Á. Cây lúa là biểu tượng cho sự no ấm, đầy đủ. Không chỉ thế, cây lúa còn là nguyên liệu để làm ra các món ăn ngon, các món ăn để cúng lễ tổ tiên vào dịp lễ Tết như bánh chưng, xôi, bánh giày… Chính điều này đã tạo ra một nền văn hoá ẩm thực đặc sắc của Việt Nam với các món ăn đầy ý nghĩa như bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh giày tượng trưng cho trời. Đó là điều khiến cây lúa gắn với con người Việt Nam về vật chất cũng như tinh thần từ bao đời nay.
Cây lúa đã trở thành một người bạn gần gũi, thân quen với mọi người dân Việt Nam. Con người Việt Nam nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng đều coi trọng cây lúa và những sản phẩm mà nó đem lại. Chắc chắn rằng, cây lúa sẽ luôn tồn tại và gắn bó với con người Việt Nam từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Bài viết số 7
Từ xa xưa cây lúa đã gắn bó với nhân dân ta, đi từ Bắc vào Nam những cánh đồng lúa xanh mướt mới đẹp làm sao? cây lúa đã được xuất hiện rất nhiều trong những bài văn, bài thơ hay, là nguồn cảm hứng sáng tạo không ngừng của nhiều họa sỹ.
Từ thời ông cha chúng ta nghề trồng lúa đã gắn bó và là món ăn tinh thần không thể thiếu, trước kia trồng lúa là nghề chính của ông cha ta.
Ngày nay với sự phát triển của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước có nhiều sự đổi thay, nhưng cây lúa vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống của người nông dân Việt Nam, nước chúng ta là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và chất lượng gạo đạt chất lượng cao, là nước có ngành nông nghiệp lúa nước lớn nhất thế giới.
Câu ca dao bao đời nay người dân chúng ta vẫn dành để nói về cây lúa:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Để có thể thu hoạch lúa là cả một quá trình vất vả của những người nông dân, gia đình tôi có truyền thống làm nghề trồng lúa, từ thời Cụ tôi, ông tôi, bố tôi đều đi theo nghề trồng lúa nước này, từ bé được gắn bó với những cây lúa và những người nông dân thật thà chất phát làm tôi thêm yêu cuộc sống, yêu con người hơn.
Tôi còn nhớ hồi nhỏ được ngồi với ông nội, ông lại kể chuyện cho tôi nghe, ông nói hồi xưa đất trồng lúa còn khô cằn lắm không được tơi xốp như bây giờ, lúc đó những người nông dân đã cày bừa, cố gắng vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết và thiên nhiên để trồng ra cây lúa xanh mướt và thu hoạch được những hạt gạo dẻo thơm.
Nước ta có rất nhiều loại giống lúa khác nhau tùy theo từng vùng miền , khí hậu, mỗi vùng miền thích hợp với các loại lúa khác nhau, thích hợp để trồng lúa nhất là những vùng nước ngọt, những vùng đất quá mặn hoặc quá phèn cây lúa khó có thể lên được.
Có rất nhiều loại lúa như lúa nếp, lúa tẻ, lúa cạn, lúa nước nông, lúa nước sâu, chủ yếu được chia ra là cây lúa nếp và lúa tẻ, lúa nếp thường để làm bánh, thổi xôi, còn lúa tẻ là lúa dùng để ăn trong các bữa cơm hàng ngày… giống lúa cũng có nhiều loại, trước kia ông cha ta hay trồng giống lúa NN8, ngày nay thì miền Nam hay trồng giống IR76, miền Bắc thì trồng các loại giống C70, DT10, A20…
Để trồng được cây lúa thì người nông dân phải giải qua rất nhiều công đoạn, từ gieo mạ, sau đó đến cấy mạ, và rồi chăm bẵm, tưới tắm, nhổ cỏ, phun sâu… mới có được những hạt gạo dẻo thơm chúng ta ăn hàng ngày.
Ở nước ta có 3 vụ lúa chính đó là vụ Đông- Xuân, vụ Hè – Thu, vụ lúa mùa, những đặc sản từ cây lúa mang đậm nét truyền thống dân tộc đó là bánh chưng, bánh dày, theo truyết xa xưa Lang Liêu được truyền ngôi do làm bánh chưng và bánh dày dâng lên vua.
Lang Liêu được thần báo mộng trong giấc mơ ” Trong đất trời không gì quý bằng hạt gạo, chỉ có gạo mới nuôi sống con người và không bao giờ chán, các thứ khác tuy ngon nhưng hiếm, người không làm ra được”.
Lang Liêu nghe theo lời thần dạy và đã làm chiếc bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dày tượng trưng cho trời, và chàng đã được lên ngôi vị thay cha và trở thành ông vua tốt, ngày này ngoài các món đặc sản như bánh chưng, bánh dày thì còn có bánh cốm cũng là một đặc sản từ cây lúa.
Cây lúa chính là người bạn thân thiết của người nông dân và là nguồn lương thực quý nhất nước ta, có tầm quan trọng rất lớn về kinh tế, cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ cho chúng ta mà còn trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần của người dân Việt Nam.
Ngày nay có nhiều loại ăn nhanh nhưng cây lúa vẫn không thay giá trị về nhiều mặt, vẫn không thể thiếu trong các bữa cơm hàng ngày, và là người bạn đồng hành của người dân Việt Nam theo năm tháng.
Bài viết số 8
“Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”
Từ ngàn đời nay, cây lúa đã gắn bó thân thiết với con người, làng quê Việt Nam. Bằng hạt gạo – hạt ngọc trời ban cho, Lang Liêu đã làm nên bánh chưng, bánh giầy tượng trưng cho trời và đất – để kính dâng vua Hùng.
Chính vì thế, cây lúa nước đã trở thành một nét đẹp văn hóa của người Việt. Hình ảnh của cây lúa và người nông dân đã trở thành những mảnh màu không thể thiếu trong bức tranh của làng quê Việt Nam bây giờ và mãi mãi về sau.
Lúa là một thực vật quý giá, là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm ngũ cốc, là cây lương thực chính của người Việt Nam nói riêng và người dân Châu Á nói chung.
Lúa thuộc loài thân thảo. Thân cây lúa tròn chia thành từng lóng và mắt. Lóng thường rỗng ruột, chỉ có phần mắt là đặc. Lá lúa có phiến dài và mỏng,mọc bao quanh thân, mặt lá nhám, gân lá chạy song song.
Tùy thời kì sinh trưởng, phát triền mà lá lúa có màu khác nhau. Khi lúa chín ngả sang màu vàng. Rễ của cây lúa không dài lắm, thường mọc với nhau thành chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất nuôi thân cây.
Hoa lúa nhỏ nhắn, mọc thành nhiều chùm dài. Điều đặc biệt của cây lúa mà ít ai để ý đến.
Hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này. Hoa lúa không có cánh hoa, chỉ có những vảy nhỏ bao bọc lấy nhuỵ ở bên trong.
Lúc hoa lúa nở, đầu nhuỵ thò ra ngoài, có một chùm lông để quét hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn rồi biến thành quả. Chất tinh bột trong quả khô đặc lại dần và biến thành hạt lúa chín vàng.
Trước đây, người Việt chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, khoa học phát triển, mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau. Trồng lúa phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân.
Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi (đang thì con gái) lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ.
Rồi lúa làm đòng, trổ bông rồi hạt lúa chắc hạt, chín vàng. Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo…
Biết bao công sức của nhà nông để có hạt gạo nuôi sống con người.
Hạt gạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống vật chất của chúng ta.Hạt gạo cung cấp chất dinh dưỡng thiết yếu, rất cần thiết cho cơ thể con người. Ngoài việc nuôi sống con người, hạt lúa, hạt gạo còn gắn bó với đời sống tinh thần của người Việt.
Có nhiều loại gạo: gạo tẻ, gạo nếp… Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh truyền thống của con người Việt Nam trong dịp Tết Nguyên Đán. Bánh chưng, bánh giầy còn gắn liền với Lang Liêu thời vua Hùng dựng nước.
Lúa nếp non còn dùng để làm cốm – một thức quà thanh lịch của người Hà Nội. Gạo nếp dùng để đồ các loại xôi – một món đồ lễ không thể thiếu trên bàn thờ của người Việt Nam trong ngày Tết và ngày cúng giỗ tổ tiên.
Đồng thời xôi cũng là thức quà quen thuộc hằng ngày. Từ lúa gạo, người Việt còn làm rất nhiều loại bánh như: bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh nếp, bánh phở, cháo… Nếu không có gạo, thật là khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực mang bản sắc văn hóa Việt Nam.
Ngày nay, nước ta đã lai tạo được gần 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia. Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về xuất khẩu gạo.
Tóm lại, cây lúa có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà chủ yếu còn dựa vào nông nghiệp.
Cây lúa bao đời là bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam, không chỉ về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần. Mãi mãi vẫn còn nghe mọi người nhắc nhau những vần điệu ca dao thấp thoáng bóng hình con trâu và cây lúa:
“Bao giờ cây lúa còn bong
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn ”
Bài viết số 9
Xuất hiện trong mỗi buổi ăn hằng ngày, trở thành loài cây gắn liền nền kinh tế nước ta một thời, là nguồn lương thực dùng để xuất khẩu sang các nước bạn bè, bạn có đoán ra đó là loài cây nào không?
Nó không phải là những loài cây ăn trái lại càng không phải là những loài cây như sắn hay khoai,…mà đó là cây lúa – một loài cây tuy mộc mạc, mỏng manh nhưng lại là nguồn lương thực chính giúp người dân có thêm sức lực để sinh sống, để trang trải cho cuộc sống mưu sinh đầy gian khổ này.
Cây lúa không chỉ là cung cấp lương thực cho con người mà còn là loài cây lưu giữ những hồi ức, những nét văn hóa của con người Việt Nam.
Cây lúa từ lâu đời đã gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người con đất Việt. Không giống những loài cây ăn quả khác như táo, xoài, dừa, chuối,…hay các loài cây lương thực khác như khoai, sắn, ngô,…cây lúa đã trở thành loại cây lương thực chính của con người. Trong mỗi bữa cơm hằng ngày luôn có sự xuất hiện của cây lúa.
Nói về nguồn gốc của cây lúa ngày nay thì có lẽ đối với con người vẫn còn khá mơ hồ bởi cho đến bây giờ, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra nguồn gốc thật sự của loài cây này. Trong một số tài liệu ghi lại, người ta chỉ biết cây lúa được tìm thấy lần đầu tiên và sớm nhất là ở vùng Đông Nam Châu Á.
Lúc bấy giờ, con người chỉ mới sử dụng các đồ dùng làm bằng đồng nhưng đã biết cách trồng lúa để làm lương thực thì đó chính là minh chứng cho sự phát triển của con người thời xưa. Lúa ban đầu là loài cây hoang dại nhưng sau khi được thuần hóa thì được con người mang về vun trồng.
Các nước có nhiều sự xuất hiện của cây lúa là ở nhiều nơi khác nhau trong khu vực Châu Á, trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam. Sở dĩ cây lúa được vun trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới là vì tại nơi phát sinh, bằng sự giao lưu văn hóa, kinh tế của con người mà cây lúa đã tồn tại ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Việt Nam nước ta có thể tự hào là một đất nước gắn liền với sự tồn tại lâu đời của cây lúa. Cũng như tác giả Bùi Huy Đáp đã có viết: “Nếu Việt Nam không phải là trung tâm duy nhất xuất hiện cây lúa trồng thì Việt Nam cũng là một trong những trung tâm sớm nhất của Đông Nam Á được nhiều nhà khoa học gọi là quê hương cây lúa trồng.
Sự hiểu biết về đặc điểm sinh học của cây lúa chính là bước đầu tiên để cho ra những hạt gạo trắng ngần, thơm phức trong mỗi bữa ăn của gia đình Việt. Trong bài viết này, tôi sẽ giới thiệu về cây lúa để bạn hiểu rõ hơn về loài cây này, bao gồm cả cấu tạo và công dụng.
Nhìn tổng quan cây lúa, bạn sẽ thấy cây lúa thật mỏng manh và có thể gãy bất cứ lúc nào. Nhưng không. Hãy cùng tôi tìm hiểu rõ hơn về loài cây này rồi sau đó, bạn sẽ phải thay đổi cách nhìn về chúng.
Rễ cây lúa thuộc loại rễ chùm. Ở những rễ non thường có màu trắng sữa đến khi rễ trưởng thành thì chuyển sang màu nâu đậm và cuối cùng là màu đen khi rễ già đi. Rễ cây lúa phát triển theo từng thời kỳ.
Thời kỳ khi mới mạ cây, rễ lúa chỉ dài từ 5-6m nếu gieo mạ thưa. Đến thời kỳ sau cấy, rễ lúa càng phát triển và số lượng cũng như độ sâu của rễ cũng nhiều hơn.
Cuối cùng là vào thời kỳ cây lúa trổ bông, rễ bắt đầu mọc dài hơn nữa, số lượng rễ lúc bấy giờ có thể lên tới 500-700 rễ. Bản chất ban đầu của loại rễ này là phát triển từ phôi của hạt (còn gọi là rễ mầm) chỉ có một chiếc và chỉ sống được trong vòng một tháng.
Trong một tháng đó, rễ mầm có tác dụng hút nước để cung cấp cho mầm phát triển và sau khi chết, các rễ phụ sẽ được hình thành, tiếp tục nhiệm vụ cung cấp chất dinh dưỡng cho cây sinh trưởng và phát triển tốt về sau. Rễ lúa thông thường chỉ phân bố ở lớp đất từ 0-20cm là chính. Thân cây lúa gồm nhiều mắt và lóng.
Mỗi lóng đều được ngăn cách bởi đốt thân. Lớp vỏ bên ngoài của đốt thân có chức năng lưu giữ nước và cung cấp chất dinh dưỡng cho cây phát triển. Lóng cây phụ thuộc vào sự phát triển của lá trên thân cây. Số lá trên thân sẽ bằng với số lóng. Lóng nằm ở phần trên cùng gần bông lúa là lóng dài nhất, gọi là lóng thứ nhất. Và cứ thế mà sẽ có lóng thứ 2, lóng 3,…
Mỗi thân cây trung bình sẽ có từ 3-8 lóng. Tuy nhiên thân cây lúa nếu nhiều lóng hay ít lóng quá cũng đều sẽ không tốt cho sự sinh trưởng và ra bông của cây. Do đó, bạn không nên chỉ chú ý vào năng suất cũng như số lóng cây mà còn nên quan sát vào thời tiết, mật độ cấy, giống vun trồng,…vì độ dài của thân lóng là tùy thuộc vào những yếu tố trên.
Sau là nhánh cây. Nhánh cây được đẻ ra khi cây lúa có từ 4-5 lá thật. Quá trình mọc ra nhánh cây là một trong những đặc điểm của cây lúa có liên quan đến quá trình ra lá và trổ bông của cây nên đây là giai đoạn khá quan trọng trong việc trồng lúa. Bắt nguồn từ thân chính, còn gọi là thân mẹ, các nhánh cây bắt đầu được đẻ ra từ nhánh nguyên thủy đến nhánh cấp 2, nhánh cấp 3, nhánh cấp 4,…
Cuối cùng nhánh được đẻ ra ở giai đoạn cuối cùng của cây lúa được gọi là nhánh vô hiệu.
Một cây lúa có khả năng đẻ nhánh nhanh hay chậm đều tùy thuộc vào loại giống lúa đã vun trồng, khí hậu và nhiều yếu tố khác. Nếu sử dụng giống lúa mới, hiện đại của ngày nay thì sẽ cho ra năng suất cũng như đẻ nhánh nhanh hơn các giống lúa ngày xưa. Lá lúa được hình thành từ các mầm lá bao gồm bẹ lá, phiến lá, lá thìa và tai lá.
Ở giống lúa ngắn ngày sẽ có từ 12-15 lá và giống lúa lâu ngày sẽ có khoảng 21 lá. Sau khi trải qua một khoảng thời gian thì sẽ đến giai đoạn thụ phấn và thụ tinh của hoa lúa, cho ra những hạt lúa thơm ngan ngát bay tít tận chân trời. Ban đầu chỉ là một hạt giống, sau khi nảy mầm thì cho xuống đất để gieo trồng và cấy mạ khi lúa dài từ 10-15cm.
Chăm sóc, chú ý đến khí hậu, thời tiết, phân bón,…và khi đến mùa thu hoạch lúa thì gặt lúa về. Quá trình hình thành nên cây lúa tuy nghe thì rất đơn giản nhưng để tạo nên những hạt lúa thơm ngon cho con người thì đó là cả một quá trình vất vả và chứa chan đầy mồ hôi của những người nông dân chân lấm tay bùn.
Cây lúa cho ra hạt gạo, từ hạt gạo con người chế biến thành món ăn chính và không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hằng ngày của con người – cơm.
Ngoài cơm, gạo còn được dùng để nấu cháo, nấu xôi,…tạo ra nhiều hương vị mới cho cuộc sống, khiến cho mỗi ngày mệt mỏi làm việc trang trải cho cuộc sống mưu sinh trở nên tràn đầy sức lực, khỏe mạnh chỉ sau một bữa cơm. Cháo còn là món ăn dùng cho người bệnh mau khỏe lại. Gạo dùng để xuất khẩu, buôn bán,…
“Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bứng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!”
Cây lúa sẽ mãi là người bạn trung thành và giúp đỡ trong cuộc sống mưu sinh của những người nông dân chân chất, hiền hòa.
Bài viết số 10
“Trời cao đất rộng thênh thang
Tiếng hòa giọng hát ngân vang trên đồng,
Cá tươi gạo trắng nước trong,
Hai mùa lúa chín thơm nồng tình quê.”
Trải dọc theo hình chữ S của đất nước Việt Nam, bước dài trên con đường ven dọc bờ sông của thôn quê, ta lại ngửi thấy mùi thơm bay ngan ngát đâu đây.
Đó chẳng phải là mùi của món ăn thôn xóm mà cũng không là mùi hương từ mái tóc người con gái nông thôn mà đó là mùi thơm ngào ngạt của cánh đồng lúa chín đang phấp phới cùng gió bay.
Cây lúa không như những loài cây khác chỉ đem đến sự hữu ích cho con người mà cây lúa còn gắn liền với những nét truyền thống văn hóa kinh tế của đất nước ta một thuở.
Ra đời từ khá lâu về trước, cây lúa được xem là một trong những loài cây thuộc nhóm cây lương thực được con người sử dụng để ăn hoặc để bán hàng ngày. Cây lúa tuy mỏng manh, yếu đuối nhưng lại là loài cây lương thực không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Nguồn gốc ra đời của cây lúa cho đến ngày hôm nay vẫn chưa được ai tìm ra.
Người ta chỉ biết cây lúa ra đời từ khá sớm ở khu vực Đông Nam Châu Á, khi mà con người chỉ mới biết dùng đồ dùng bằng đồng. Sau đó, cây lúa được thuần hóa ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Myanmar, Ấn Độ, trong đó có cả Việt Nam.
Có thể nói Việt Nam là một trong những trung tâm sớm nhất tiếp nhận sự xuất hiện của cây lúa. Khi phát hiện ra loài cây này, con người đã lấy đập vỏ của nó để lấy hạt màu trắng nấu ăn nhưng không ngờ nó lại ngon và khiến cho con người cảm thấy no nên từ đó họ đã sử dụng giống cây này để vun trồng trong cuộc sống.
Bằng cách nào đó, khi mới phát hiện công dụng của loài cây này, cây lúa đã đi đến khắp mọi nơi trên thế giới và được nhiều quốc gia tiếp đón và nhập khẩu vào nước để sử dụng. Từ đó, cây lúa đã trở thành loài cây lương thực chính của con người trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Cây lúa gắn liền với truyền thống của một nền nông nghiệp lúa nước ở nước ta một thời.
Sự ra đời của cây lúa đã mang đến nhiều lợi ích cho cuộc sống của con người chúng ta. Từ trước tới bây giờ, cây lúa vẫn mãi là loài cây không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của con người.
Vì vậy, để hiểu rõ hơn về cấu tạo cũng như những lợi ích gì mà cây lúa đã mang đến, bạn hãy cùng với tôi khám phá rõ hơn về loại cây này nhé! Rễ cây lúa thuộc loại rễ chùm. Rễ lúa xuất phát từ phôi của hạt, hay còn gọi là rễ mộng, rễ mầm. Loại rễ này ban đầu chỉ có một chiếc và chỉ sống được trong vòng một tháng, có nhiệm vụ hút nước để cung cấp nuôi phôi.
Sau khi rễ mộng chết đi thì những loại rễ phụ ( rễ bất định ) mọc lên và trở thành bộ rễ của cây để hút chất dinh dưỡng nuôi cây phát triển. Rễ non có màu trắng sữa và đến khi già đi thì có màu đen. Rễ lúa cũng như một số loài cây khác, phát triển qua từng thời kỳ, từ thời kỳ cấy mạ đến thời kỳ lúa trổ bông thì bộ rễ lúa có thể có tới khoảng 800 rễ, dài, bám sâu vào lòng đất.
Thân cây lúa rất mỏng manh và có thể dễ bị gãy. Thân lúa có nhiều lóng và sự phát triển của lóng này có bao nhiêu thì số lá trên thân lúa cũng có bấy nhiêu. Mỗi một lóng được ngăn cách bởi đốt thân.
Phần bên trong của đốt rỗng, phần bên ngoài bao gồm bó mạch với chức năng dẫn nước và cung cấp chất dinh dưỡng để nuôi cây trong suốt thời kỳ sinh trưởng và ra bông.
Một thân cây lúa trưởng thành có thể có từ 3-8 lóng. Lóng ở trên cùng, sát với bông lúa là lóng dài nhất, khoảng 5mm và cứ như vậy những lòng còn lại tính từ lóng thứ hai xuống lóng nằm sát bộ rễ sẽ có chiều dài nhỏ dần đi. Thân cây lúa nếu có nhiều lóng dài thì dễ bị gãy, còn nếu có nhiều lóng ngắn thì sẽ ảnh hưởng đến năng suất của cây.
Vì vậy, khi trồng lúa, bạn nên chú ý vào đặc điểm này của thân cây. Nhánh lúa được phát triển từ thân chính của cây. Thân chính đẻ ra nhánh cấp 1, nhánh cấp 1 đẻ ra nhánh cấp 2, nhánh cấp 2 đẻ ra nhánh cấp 3 và cứ thế mà các nhánh khác sẽ được tạo thành. Cây chỉ được đẻ nhánh khi có từ 4-5 chiếc lá thật.
Những nhánh ra sớm được gọi là nhánh hữu hiệu và những nhánh ra vào cuối giai đoạn của cây được gọi là nhánh vô hiệu. Do đó, để nhánh ra sớm hơn thì bạn nên chọn loại giống mới nhưng an toàn và cũng nên chú ý vào các yếu tố bên ngoài như khí hậu,…Lá lúa bao gồm: bẹ lá, phiến lá, thìa lá và tai lá.
Lá thật của lá lúa được người ta xem lá lúa thứ hai mọc ra. Bẹ lá bao quanh phần non của thân và cuốn dài thành hình trụ. Phiến lá hẹp và thẳng. Lá thìa hình tam giác, nhỏ. Tai lá có hình lưỡi liềm.
Hoa lúa gồm bầu nhị, vỏ trấu và bao phấn. Khi nở hoa thụ phấn thì vỏ trấu chịu áp lực của vòi nhị mở ra, bao phấn cũng mở ra để hạt phấn rơi vào bầu nhụy, phát triển thành hạt. Sau đó bao phấn sẽ bị đẩy ra ngoài khỏi vỏ trấu đến khi vòi nhị héo đi và bao phấn rụng đi thì đã kết thúc quá trình nở hoa thụ phấn.
yếu tố bên ngoài như thời tiết, nhiệt độ cũng đều sẽ ảnh hưởng đến quá trình này của cây. Vì vậy bạn nên chú ý cẩn thận. Sau khi thụ phấn thì sẽ đến quá trình thụ tinh của cây lúa, trong khoảng 8 giờ.
Lúc đó, phôi và phôi nhủ sẽ bắt đầu hình thành. Chỉ sau 2 tuần, phôi của hạt đã được hình thành và nằm dưới bụng hạt. Phần phôi nhủ cũng phát triển nhanh không kém. Và cứ thế trải qua sau 21 ngày thì hạt lúa đã đạt đến khối lượng tiêu chuẩn lớn nhất.
Cách trồng để cho ra những hạt gạo từ cây lúa ngan ngát mùi thơm khá đơn giản. Bước đầu đem hạt giống đã nảy mầm đi gieo trồng. Sau khi cây mọc dài từ 10-20cm thì bắt đầu cấy lúa.
Trong quá trình khi cấy lúa và sau khi cấy lúa, bạn nên chăm sóc cây lúa cẩn thận, cần phải chú ý đến những yếu tố như khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm, sâu bệnh, và quá trình cây phát triển để cho ra những hạt thóc giàu chất dinh dưỡng và đạt năng suất cao nhất có thể
. Khi cây lúa chuyển sang màu vàng và đã trổ bông thì cũng là đến mùa thu hoạch lúa. Sau khi thu hoạch xong, người ta sẽ tiếp tục cấy để dành cho mùa lúa năm sau.
Nói về công dụng của cây lúa thì có lẽ đã quá quen thuộc với cuộc sống của con người. Lúa cho ra hạt, con người lấy hạt để chế biến thành cơm dùng trong các bữa ăn hàng ngày.
Trong suốt một ngày làm việc, con người sẽ cảm thấy khá mệt mỏi nếu như không ăn cơm vì trong hạt gạo có thành phần tinh bột rất cần thiết cho con người. Món cơm có thể nói là món ăn truyền thống của tất cả mọi gia đình trên thế giới.
Không chỉ chế biến thành cơm trong mỗi bữa ăn mà còn có thể làm thành cháo, xôi,…rất nhiều món ăn khác nhau được chế biến từ hạt gạo. Gạo còn dùng để buôn bán trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Việt Nam nước ta tự hào vì là nước đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới.
“Bao xa cách nay về thăm lại
Cánh đồng làng nhẫn nại công cha
Ngạt ngào hương lúa tỏa xa
Đượm mồ hôi mẹ rớt qua tháng ngày!”
Cây lúa không chỉ đối với riêng Việt Nam mà đối với cả thế giới sẽ là loài cây không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
Trên đây là các dàn ý cùng văn mẫu bài thuyết minh về cây lúa, đầy đủ, dễ hiểu và chi tiết. Các bạn tham khảo vừa để tích lũy thêm kiến thức về lúa vừa giúp bạn hành văn trôi chảy, mạch lạc hơn. Việc tóm gọn các ý chính bài thuyết minh và viết theo cách riêng của mình là hiệu quả nhất. Chúc các bạn thành công